Trang trong - Tin tức
Tương lai dotcom Việt Nam
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Người Mĩ thích gửi email, lướt web tìm thông tin, trong khi những người trẻ tuổi ở Trung Quốc thích chơi game, tải video và nhạc vào di động, máy nghe nhạc MP3.

Ở Việt Nam, thanh toán trực tuyến và tâm lí tiêu dùng đang là hai thách thức lớn đối với tương lai ngành dotcom.

Gần một thập kỉ qua, Việt Nam đã ghi nhận sự đầu tư mạnh mẽ trong ngành dotcom. Đầu tư này gồm đầy đủ các dạng công cụ tìm kiếm (nổi lên là Google VN), cổng thông tin (đơn cử là Yahoo, Zing), thương mại điện tử (hơn 9.000 sàn giao dịch thương mại điện tử dạng B2B - doanh nghiệp với doanh nghiệp, B2C- doanh nghiệp với khách hàng và C2C- khách hàng với khách hàng), mạng xã hội (lên đến con số hàng trăm), tích hợp giải trí trực tuyến (chẳng hạn Vinagame, FPT, VTC).

Số lượng các công ty dotcom nhiều, nhưng thực trạng tồn tại ra sao, doanh thu thế nào, và quan trọng hơn cả là khả năng phát triển trong tương lai đến đâu, vẫn những câu hỏi lớn của lĩnh vực kinh doanh còn non trẻ này.
Nhìn từ Trung Quốc

Ngành dotcom tại Trung Quốc bùng nổ trước Việt Nam không lâu. Tuy nhiên những tên tuổi như Baidu (tìm kiếm, tin tức), Alibaba (thương mại điện tử), Tencent (giải trí trực tuyến) đã phát triển rất mạnh mẽ, thậm chí còn thách thức các đại gia đến từ Mĩ như eBay, Amazon, Yahoo!…

Lí do nào khiến họ làm được như vậy? Hãy tìm hiểu trường hợp của Tencent. Những ngày đầu thành lập, Tencent đã rất chật vật trong việc tìm kiếm lợi nhuận, nhưng sau đó, Tencent đã lên như diều gặp gió với hoạt động phát triển các trò chơi trực tuyến. Bên cạnh đó, doanh thu từ mảng dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng và di động của công ty này cũng tăng mạnh không kém, như tờ New York Times (Mĩ) nhận định. Chiến lược phát triển của Tencent chính là sự kết hợp các yếu tố của mạng xã hội Myspace, trang web giải trí Youtube và thế giới ảo Second Life của Mĩ.

New York Times trích phân tích của ông R. Ji, một nhà nghiên cứu thuộc ngân hàng Morgan Stanley (Mĩ), cho rằng: “Nếu ở Mĩ, người sử dụng Internet quan tâm đến thông tin thì ở Trung Quốc, đó là giải trí. Cho nên, Google thống lĩnh thị trường Mĩ còn Tencent trị vì thị trường Trung Quốc”. Sự thống lĩnh của Google ở Mĩ và Tencent ở Trung Quốc đã cho thấy hướng phát triển và tương lai của hai thị trường. Người Mĩ thích gửi email, lướt web tìm thông tin, trong khi người Trung Quốc thích chơi game, tải video và nhạc vào di động, máy nghe nhạc MP3. Tencent đã kiếm lời từ các dịch vụ của thế giới ảo cũng như từ tích hợp các dịch vụ của mạng xã hội.

Và New York Times một lần nữa phân tích, chính sự lớn mạnh nhanh chóng của Tencent gắn với văn hóa tiêu dùng mới của Trung Quốc đã góp phần khiến các công ty internet lớn nhất của Mĩ như Yahoo!, Google và eBay phải vất vả tại đây.

Tại Trung Quốc, Google đã mất thị phần vào tay công cụ tìm kiếm Baidu. Yahoo! đã chuyển giao hoạt động của mình cho Alibaba. com. Còn eBay, sau khi mua một trong những đối thủ lớn nhất của mình ở Trung Quốc, đã không thể đứng vững và phải giao quyền hoạt động ở Trung Quốc cho Tom. com, một công ty liên doanh nội.

Rõ ràng, các công ty nước ngoài đã thất bại trong việc hiểu thị trường internet Trung Quốc, đang phát triển dựa vào giải trí và di động. Nhưng cũng không thể bỏ qua việc chính phủ Trung Quốc đang tạo rất nhiều ưu đãi cho các công ty dotcom nội địa phát triển, cũng như gây ra các rào cản trong hoạt động của các công ty nước ngoài tại đây.

So với Trung Quốc, ngành dotcom Việt Nam có những điểm tương đồng. Giống như Tencent, Vinagame, một công ty Việt Nam đã phát triển nội dung số tổng hợp (gồm trò chơi trực tuyến, cổng thông tin, sàn giao dịch điện tử, mạng xã hội) trong 5 năm, đã đạt doanh thu 50 triệu USD (tương đương 1.000 tỉ đồng) và trở thành một trong số ít công ty dotcom có doanh thu lớn trong nước.

Một điểm tương đồng khác dễ nhận ra, đó là việc các công ty dotcom quốc tế lớn gặp một số khó khăn khi đặt chân vào thị trường nội địa. eBay và Alibaba đã không thể đơn thương độc mã chiến đấu tại Việt Nam. eBay vào Việt Nam 2007 và hoàn toàn mờ nhạt sau một năm kinh doanh bởi những hạn chế về rào cản ngôn ngữ, thói quen tiêu dùng, để rồi phải kết hợp với Chodientu, một trong các sàn giao dịch thương mại điện tử hàng đầu tại Việt Nam. Sau đó, website thương mại này đổi tên thành Chodientu eBay, thực hiện chức năng cho phép cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam giao thương với nhau qua website này cũng như với các website eBay toàn cầu. Không chỉ eBay, Alibaba của Trung Quốc cũng đang chọn công ty Cổ phần Đầu tư và Công nghệ OSB làm đại lí ủy quyền của họ tại Việt Nam.

Với việc liên kết này, các nhà kinh doanh Việt Nam đang hưởng lợi lớn. Đại diện OSB (đại lí cho Alibaba) không ngại cho rằng, chỉ tính riêng ngân sách cho hoạt động quảng bá thu hút các nhà nhập khẩu của Alibaba đã lên đến 30 triệu USD. Bên cạnh đó, OSB còn được hưởng lợi từ 5.000 tài khoản doanh nghiệp chào bán sản phẩm xuất khẩu tại Alibaba.

Trong khi đó, với sự đầu tư của quỹ IDG Ventures, đại diện Vatgia cho rằng, họ đang được một nhà đầu tư nước ngoài khác định giá 5 tỉ USD. Tuy nhiên, khi đề cập đến mức độ tăng trưởng doanh thu sau khi hợp tác chiến lược, những đại diện từ Chodientu, eBay, OSB, Alibaba đều từ chối tiết lộ chi tiết.

Một điểm tương đồng nữa, đó là vai trò của các quỹ đầu tư trong việc đẩy mạnh sự phát triển của ngành thương mại điện tử. Không ít các công ty dotcom hiện nay đều có các quỹ đầu tư chống lưng, ví dụ như IDG Ventures đầu tư phần lớn vào các công ty dotcom (hơn 30 công ty), VinaCapital (trên 5 công ty).

Nhìn vào những điểm tương đồng này, nhiều người sẽ kì vọng tương lai ngành dotcom của Việt Nam hẳn sẽ tươi sáng không kém gì Trung Quốc. Nhưng trên thực tế, thương mại điện tử của Việt Nam vẫn còn những rào cản khó vượt qua.
Thanh toán trực tuyến

Có nhiều nguyên nhân để lí giải việc kinh doanh khó khăn của các sàn giao dịch điện tử và mạng xã hội trong thời gian qua, cũng như hiện nay, trong đó, thanh toán trực tuyến là vấn đề nổi bật nhất.

Các mô hình sàn giao dịch điện tử B2B, B2C trên thế giới tìm kiếm lợi nhuận từ 2 nguồn thu: từ quảng cáo của bên bán hoặc ăn phí giao dịch trực tuyến (thông thường là 2-3% trong một hợp đồng thu của bên bán và đây là nguồn thu lớn của các nhà kinh doanh thương mại điện tử). Cho đến nay, phí thu từ giao dịch trực tuyến của các ông chủ kinh doanh sàn tại Việt Nam rất eo hẹp vì thói quen mua bán và thanh toán trực tuyến đến giờ phút này vẫn chưa cho thấy dấu hiệu khởi sắc.

Dù cơ sở hạ tầng thanh toán từ phía ngân hàng được nhận định là có những tiến bộ, và dù bắt đầu đã xuất hiện các website chuyên biệt phục vụ thanh toán như Baokim, Vinapay, Nganluong nhưng dường như cơ sở hạ tầng thanh toán đã phát triển nhanh hơn nhu cầu thực.

Bằng chứng là trong suốt 3 năm, 2006-2008, qua hàng ngàn doanh nghiệp được Bộ Công Thương khảo sát cho thấy, thanh toán trực tuyến vẫn chỉ dao động khoảng 3% số lượng doanh nghiệp sử dụng. Trong khi đó, phương thức thanh toán tiền mặt hoặc qua ngân hàng vẫn ở mức cao, xấp xỉ 70% doanh nghiệp chọn lựa.

Lê Hồng Minh, Tổng giám đốc Vinagame, sở hữu sàn 123mua không đưa ra một lí giải cụ thể nào về tình trạng này. Ông cho biết, những gì ông đang làm cho 123mua chỉ là những bước khởi đầu. Ông Minh cũng thừa nhận: “Thương mại điện tử tại Việt Nam vẫn còn quá non trẻ”.

Khảo sát thực tế cho thấy, đã có 4 sàn giao dịch thương mại điện tử xác lập mô hình chuyên nghiệp, nghĩa là chịu trách nhiệm cho sản phẩm trên sàn của mình và có tính năng thanh toán trực tuyến thông qua các cổng thanh toán trực tuyến. Đó là Vatgia (dùng cổng thanh toán baokim.vn), Chodientu (thông qua vinapay, nganluong), 123mua và Aha. Đây cũng là những trang nằm trong số 100 trang web thương mại điện tử VN do trang web Alexa bình chọn. Tuy nhiên, nguồn thu phí giao dịch trực tuyến còn rất khiêm tốn và các chủ đầu tư vẫn nhắm chủ yếu vào nguồn thu quảng cáo.

Hiện nay, với mức phí giao dịch trực tuyến chưa đáng kể, quảng cáo trực tuyến trở thành nguồn thu chính của các công ty dotcom. Tuy nhiên, doanh thu từ quảng cáo trực tuyến năm 2009 chỉ khoảng 6 triệu USD, chiếm 2% doanh thu ngành quảng cáo.

Quảng cáo là thị trường còn rất tiềm năng cho các công ty dotcom nhưng câu chuyện “sống được từ quảng cáo trực tuyến lại không dễ dàng” khi có những khảo sát chính thức cho thấy, một số lĩnh vực của dotcom đang có dấu hiệu chững lại.

Ở lĩnh vực sàn điện tử, bên bán, đối tượng chính trả tiền quảng cáo trên các sàn giao dịch sẽ chỉ mở hầu bao khi sàn có đủ một số lượng người mua lớn, liên tục tăng, và ngược lại, người mua sẽ chỉ tham gia khi sàn có đa dạng hàng hóa từ người bán. Trong khi đó, 2 năm vừa qua, các sàn dường như không còn hấp dẫn cả nhóm mua lẫn nhóm bán.

Về đối tượng doanh nghiệp, năm 2009, kết quả của Bộ Công Thương khảo sát trên 2004 doanh nghiệp ngẫu nhiên ở tất cả các ngành nghề tại những đô thị lớn đã cho thấy, chỉ có 12% trong số này tham gia các sàn giao dịch điện tử trong và ngoài nước. Năm 2008, con số này cũng là 12%.

Ngay cả các sàn lớn của thế giới có tiếng tăm đã đến Việt Nam cũng không thắng được hơn các sàn bản địa về mức độ thu hút doanh nghiệp tham gia. Đơn cử như hai sàn của Việt Nam là ECVN và Gophatdat thu hút lần lượt 5%, 6% doanh nghiệp trong tổng số lượng được khảo sát, trong khi đó, sàn EC21 (Hàn Quốc) và Alibaba (Trung Quốc) cũng chỉ chiếm lần lượt là 2% và 7%. Thực trạng là nguồn cung đang thừa, vì hiện Việt Nam đang có đến khoảng hơn 9.300 website chuyên doanh sàn B2B và B2C.

Hiện nay, thương mại điện tử Việt Nam chiếm 0,3-0,4% tổng sản phẩm nội địa của cả nước, trong khi ở Mĩ, con số này là 7%. Khi được hỏi bao lâu thương mại điện tử Việt Nam có thể đạt được con số 7% như Mĩ, ông Nguyễn Hoàng Điệp, Giám đốc công ty Cổ phần Vật giá Việt Nam, sở hữu sàn giao dịch Vatgia phán đoán, có lẽ phải 10 năm nữa.
Tâm lí người dùng

Không chỉ doanh nghiệp, đại bộ phận người tiêu dùng cũng chưa thấy thật thoải mái để tham gia. Một nhà kinh doanh sàn điện tử tại TP. HCM (yêu cầu không nêu tên) đã không ngần ngại cho biết, sau khi khảo sát gần 1.000 hộ gia đình và cá nhân vào tháng 1.2010 về mức độ tham gia các sàn B2C, C2C có đến gần 45% hộ và cá nhân không tin tưởng vào chất lượng dịch vụ, hàng hóa trên sàn, 37% không muốn thanh toán trực tuyến qua mô hình thương mại điện tử vì quá rủi ro.

Tương tự như sàn giao dịch điện tử, mạng xã hội phát triển nóng sau 2 năm 2007, 2008. Tuy nhiên đến 2009, mạng xã hội có dấu hiệu bão hòa. Vào quý đầu 2009, công ty nghiên cứu thị trường FTA đã cho biết, 76% giới trẻ từ 17-30 tuổi tại các thành phố lớn là TP. HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ không muốn tăng thêm thời gian vào các mạng xã hội. Khi Yahoo! 360o, một mạng xã hội thu hút lượng truy cập lớn, đóng cửa (năm 2009) thì hàng loạt các mạng khác của Mĩ như Hi 5, Myspace, Cyworld, Opera, Twitter, hay mạng của Việt Nam như Tamtay, Yobanbe cũng chỉ gia tăng đột biến lượng thành viên trong một thời gian rất ngắn, khoảng vài tháng. Duy chỉ có Facebook, theo FTA, vẫn giữ vị trí hàng đầu.

Trong khi đó, bên cạnh phí giao dịch, phí quảng cáo, nguồn thu thứ 3 của các công ty dotcom là phí tạo nên từ giá trị gia tăng cũng gặp những cản trở về mặt tâm lí người dùng.

Ông Hồ Quang Khánh, ông chủ mạng xã hội nghề nghiệp Cyvee, cho rằng, nguồn thu phí từ tài sản ảo không quá lớn bởi thói quen xài miễn phí các dịch vụ mạng, cho nên, nguồn thu các nhà mạng trông đợi, cũng như các nhà kinh doanh sàn, vẫn là từ quảng cáo trực tuyến.

Tuy nhiên, loại nguồn thu này lại thích hợp cho các nhà kinh doanh loại hình giải trí trực tuyến như Vinagame chẳng hạn. Doanh thu của mảng game online đến từ việc các nhà kinh doanh bán thẻ chơi game trả trước tại các cửa hàng dịch vụ internet. Bên cạnh đó, trong 100 người chơi và chỉ cần 5 người trả tiền cho các dịch vụ giá trị gia tăng (bỏ tiền mua hàng hóa phục vụ cho việc chơi game) thì cũng mang về doanh thu tốt cho nhà đầu tư.

Hai yếu tố gồm hạ tầng thanh toán trực tuyến và tâm lí người tiêu dùng đang tác động đến sự sàng lọc của các công ty dotcom trong tương lai. Phần lớn các nhà kinh doanh cổng thông tin, sàn giao dịch, mạng xã hội và thậm chí là giải trí trực tuyến đều phải đầu tư tối thiểu là vài trăm ngàn USD trong giai đoạn đầu và con số lên đến hàng triệu USD ở những thời điểm tiếp theo, cộng với một chiến lược phát triển hợp lí mới mong tồn tại được.

Nhìn chung, các mạng xã hội Việt Nam như mạng đa phương tiện (Cyworld, Clip, Zing), mạng nghề nghiệp (Cyvee, Caravat), mạng tích hợp thương mại điện tử (Youshop, Vimua), mạng chuyên ngành (Vibeyeu, Vicongdong) cũng đều đang trong giai đoạn hòa vốn. Các nhà kinh doanh sàn giao dịch cũng thế. Và theo một chuyên gia kinh doanh mạng xã hội thì trong 3 năm qua, đã có gần trăm mạng xã hội rút lui không kèn không trống, và trong số 9.300 sàn giao dịch thương mại điện tử chỉ còn nổi lên chưa đến 10 sàn.

Tương lai của dotcom Việt Nam trong 5 năm tới vẫn sẽ là những cuộc sàng lọc để sân chơi trở nên “ít mà chất lượng”. Bên cạnh những bước phát triển của hệ thống thanh toán trực tuyến và những thay đổi tích cực về tâm lí sử dụng thương mại điện tử (76% trong nhóm doanh nghiệp chưa sử dụng thương mại điện tử được Bộ Công Thương khảo sát cho biết sẽ tham gia lĩnh vực này vào năm 2010), những cuộc hợp tác nội-ngoại có thể sẽ là chất xúc tác để ngành dotcom Việt Nam đạt được sự phát triển ổn định.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Các tin đã đăng:
Visitor